Đây là nhận định của Giáo sư Carl Thayer, chuyên gia Đông Nam Á, về quan hệ kinh tế Đông Nam Á – Tung Của trước bối cảnh Việt Nam liên tiếp trong giai đoạn gia nhập Hiệp định TPP. Thứ nhất: Điều Bắc Kinh không muốn đặc biệt là quốc tế hóa vấn đề thắc mắc Biển Đông tiếp tục thành hiện thực. Cách cư xử hung hăng, dẫn tới hấn, coi thường luật pháp, gây mất ổn định khu vực của Bắc Kinh đã và ngày càng làm cả thế giới lo ngại. vấn đề cần hỏi Biển Đông có đôi khi còn nóng hơn cả xung đột ở Ukraine trên 1 vài mặt báo quốc tế. Ngoại trưởng USA John Kerry gọi đó là một số thao tác khiêu khích. Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden lúc gặp Tổng tư vấn trưởng Giải phóng quân Nhân dân Tung Của đã nhấn mạnh Hoa Kì không ủng hộ bất kì quốc gia nào thực hiện các bước khiêu khích để thúc đẩy những tuyên bố về một vài khu vực tranh chấp theo phương pháp làm suy yếu hòa bình và ổn định trong khu vực. Nhưng trên thực tế, trường hợp lệ thuộc kinh tế vào Trung Quốc ko hoàn toàn diễn ra như vậy. 1 vài dẫn chứng về sự áp đảo kinh tế China đối với Việt Nam có vẻ đã bỏ sót các thắc mắc hệ trọng. Trong bài phân tích, Malcolm Cook cho rằng, các người ủng hộ ý kiến thống trị của kinh tế Trung Quốc thường thích dùng vài số liệu thương mại tổng hợp, bởi nó chắc chắn đưa ra lý lẽ thuyết phục rằng Tung Của là bạn hàng thương mại lớn nhất, nhì của tất cả một vài nền kinh tế trong khu vực đầu tư chứng khoán. Bởi thế, không có gì ngạc nhiên lúc một số số liệu về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của China với 1 số nước Asean phần đông đều bị lờ đi. Theo số liệu của Liên hợp quốc, tính tới cuối năm 2012, Trung Quốc mới chỉ là nguồn vốn FDI lớn thứ bảy ở Đông Nam Á cả về tổng số vốn đăng ký lũy kế, cũng như những mẫu vốn mới. trọng lượng FDI trong khu vực của Malaysia lớn gần gấp rưỡi so với Tung Của, vốn của Nhật Bản hay Mỹ đều cao hơn tầm năm lần. Tính tư nhân ở những nước, vốn của Nhật Bản đầu tư đến Thái Lan lớn gấp đôi so cùng đầu tư của Tung Của vào toàn bộ 10 quốc gia trong khu vực. vào cuối năm 2013, Hoa Kì chiếm 1/7 lượng tiền đầu tư trực tiếp vào Singapore, trong lúc Tung Của chỉ chiếm dưới 1/50. Tại quốc gia bị coi là có sự lệ thuộc lớn vào kinh tế Trung Quốc như Philippines thì lượng vốn mà Bắc Kinh bỏ vào cũng chỉ chiếm tầm 1,2% tổng số vốn FDI. Vốn đầu tư của Nhật Bản lớn gấp 20 lần, còn Hoa Kì gấp 25 lần Trung Quốc. Thậm chí lượng tiền đầu tư của 1 vài đơn vị Philippines đến Tung Của còn gấp đôi vốn mà vài đơn vị Trung Quốc đầu tư ngược lại. Một đặc điểm ko kém phần trọng yếu là dù chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu trong thị trường điện tử và ô tô chiếm phần lớn trong thương mại của 1 số nước Việt Nam với Tung Của, thì 1 vài công ty Nhật Bản, Hoa Kì, châu Âu, Korean và Đài Loan mới là chủ thể kiểm soát hầu hết một số chuỗi giá trị, cũng như nơi đặt 1 số mắt xích phân phối. Xét về sự áp đảo tiềm năng kinh tế, thì tương quan thương mại giữa 1 số công ty khu vực và Trung Quốc chỉ hợp lý nếu Tung Của sở hữu riêng cho mình các đơn vị và một vài chuỗi giá trị này. nhưng thực tế ko phải vậy. Mối lo ngại về tính “độc quyền” của kinh tế China tại Asean chưa có địa chỉ. Tương lai, lúc kinh tế Việt Nam càng giàu có và càng mở thì càng bớt lệ thuộc đến China. Trung Quốc cũng không đứng yên nhìn Nhật Bản vượt mặt mình. Năm ngoái, Chủ tịch China Tập Cận Bình đã tuyên bố kế hoạch thành lập một nhà băng chuyên về lớn mạnh CSHT ở châu Á để làm đối trọng với nhà băng phát triển Châu Á (ADB) mà Nhật Bản đóng chức năng chính. Trung Quốc cũng liên tiếp thúc đẩy kế hoạch xây dựng hệ thống đường sắt cao tốc nối tỉnh Vân Nam với Lào và Thái Lan. Dù vậy, một số quan chức chính phủ Lào vô cùng hoan nghênh sự để ý của một vài công ty Nhật Bản. Lượng vốn đầu tư của Nhật Bản vào trên thị trường Lào đã tăng từ 27,5 triệu đôla nước Mỹ năm 2012 lên 406 triệu đôla nước Mỹ năm 2013, vượt qua viện trợ của chính phủ Nhật Bản. giá cả phân phối ở Lào phải chăng bằng 1/3 ở China và các công ty phụ trợ có quy mô vừa và nhỏ tiếp tục nghiên cứu hết sức kĩ về hướng đi mới này.